Trong thời gian vừa qua, vài trường hợp Cục Hải quan Bình Dương không cho phép doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài xuất khẩu hàng hóa đã nhập khẩu theo quyền nhập khẩu do CụcHải quan Bình Dương cho rằng hoạt động này có thể được xem là kinh doanh tạm nhập tái, xuất – hoạt động mà doanh nghiệp FDI không được phép thực hiện.
Cụ thể, theo quy định của Luật quản lý ngoại thương 2017, Nghị định 09/2018/NĐ-CP hướng dẫn Luật quản lý ngoại thương thì đang có sự tương đồng về cách hiểu doanh nghiệp thực hiện “quyền kinh doanh tạm nhập tái xuất” và việc doanh nghiệp thực hiện “quyền xuất khẩu” đối với hàng hóa đã nhập khẩu hợppháp vào Việt Nam, cụ thể như sau:
Theo quy định tại Khoản 1, Điều 39 Luật quản lý ngoại thương 2017, “Kinh doanh tạm nhập, tái xuất” được hiểu là “Việcthương nhân mua hàng hóa từ một nước đưa vào lãnh thổ Việt Nam hoặc từ khu vực hải quan riêng đưa vào nội địa và bánchính hàng hóa đó sang nước, khu vực hải quan riêng khác”. Đồng thời, Tại Khoản 1 Điều 7 Nghị định 09/2018/NĐ-CP hướng dẫn về hoạt động mua bán hàng hóa của nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam quy định: “Tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã có quyền xuất khẩu, được xuất khẩu hàng hóa ra nước ngoài và khu vực hải quan riêng bao gồm cả hàng hóa nhập khẩu hợp pháp vào Việt Nam.”
Các quy định tại hai văn bản này đã gây ra những cách hiểu khác nhau cho doanh nghiệp và chính Hải quan các tỉnh, thành phố. Trong khi đó, tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài lại không được phép kinh doanh tạm nhập, tái xuất hàng hóa theoquy định tại Khoản 2, Điều 13 Nghị định 69/2018/NĐ-CP hướng dẫn Luật quản lý ngoại thương 2017, cụ thể: “2. Đối với tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, chỉ được thực hiện tạm nhập, tái xuất hàng hóa theo quy định tại Điều 15 Nghị địnhnày, không được thực hiện hoạt động kinh doanh tạm nhập, tái xuất hàng hóa.”
Các quy định trên đã dẫn đến việc doanh nghiệp FDI mua hàng hóa từ nước ngoài về để sản xuất kinh doanh, đã nộp thuế đầyđủ, sau đó thực hiện quyền xuất khẩu ra nước ngoài hoặc vào khu vực hải quan riêng theo quy định tại Khoản 1, Điều 7 Nghị định 09/2018/NĐ-CP, nhưng Hải quan Bình Dương lại cho rằngđây là thực hiện việc kinh doanh tạm nhập, tái xuất theo quy định tại Khoản 2, Điều 13, Nghị định 69/2018/NĐ-CP và bị cấmtheo quy định này.
Từ những bất cập trên, các lô hàng xuất khẩu đi nước ngoài hoặc xuất vào khu phi thuế quan của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Hải quan Bình Dương đều bị tạm dừng.
Để tháo gỡ vướng mắc này, ngày 29 tháng 7, Cục Quản lý và Giám sát thuộc Tổng cục Hải quan đã ban hành công văn số 1238/GSQL-GQ2 gửi đến Cục Hải quan Bình Dương về thủ tục hải quan cho việc thực hiện quyền nhập khẩu và xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI.
Theo đó, Tổng cục Hải quan cho phép doanh nghiệp thực hiện quyền nhập khẩu hàng hóa, sau đó xuất khẩu nguyên trạng hàng hóa ra nước ngoài hoặc xuất vào khu phi thuế quan. Lưu ý:
(a) Trong trường hợp các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhập khẩu hàng hóa, doanh nghiệp khai báo tờ khai hảiquan nhập khẩu mã loại hình A41 khi thực hiện thủ tục nhập khẩu;
(b) Trong trường hợp sau đó các doanh nghiệp muốn xuất khẩu các hàng hóa này ra nước ngoài hoặc vào các khu phi thuế quan, Tổng cục Hải quan tham khảo hướng dẫn trước đó trong các công văn số 695/TCHQ-GSQL (tháng 2/2021) và 4032/TCHQ-GSQL (tháng 8/2021) như sau:
• Các doanh nghiệp FDI nên làm tờ khai hải quan xuất khẩu bằng cách sử dụng mã loại hình B13 nếu hàng hóa đáp ứng yêu cầu về việc không thu thuế xuất khẩu và hoàn thuế nhập khẩu. Thông tin liên quan đến (i) số tờ khai hải quannhập khẩu của hàng hóa đã nhập khẩu trước đó, và (ii) ghi chú “Hàng hóa không thuộc diện chịu thuế xuất khẩu và đủ điều kiện để hoàn thuế nhập khẩu theo quy định” phải được khai báo qua phần “Ghi chú” của tờ khai hải quan.
• Nếu không, doanh nghiệp nên sử dụng mã loại hình B11 và phần “Ghi chú” của tờ khai hải quan xuất khẩu phải được khai báo là “Tờ khai hải quan này không nhằm mục đích không thu thuế xuất khẩu và hoàn thuế nhập khẩu”.
Dựa trên các hướng dẫn trên, có thể hiểu rằng TCHQ vẫn cho phép các doanh nghiệp FDI xuất khẩu các hàng hóa đã nhập khẩu từ nước ngoài hoặc từ các khu phi thuế quan, và hướng dẫn của TQCH nêu trên phù hợp với những hướng dẫn đã ban hành trước đây.