Một số điểm mới trong phần các tội phạm của BLHS năm 2015

Phần các tội phạm có 14 chương (từ Chương 13 đến Chương 26) gồm 318 điều (từ Điều 108 đến Điều 425) quy định các tội phạm cụ thể. So với BLHS năm 1999 tăng 42 điều, Bao gồm các chương, điều sau:

Chương XIII: Các tội xâm phạm an ninh quốc gia

Chương này có 15 điều (từ Điều 108 đến Điều 122) quy định những hành vi xâm phạm đến an ninh quốc gia bị coi là tội phạm và hình phạt đối với các tội phạm này, chương này có một số nội dung sử đổi bổ sung mới như sau:

– Tách “Tội trốn đi nước ngoài hoặc trốn ở lại nước ngoài nhằm chống chính quyền nhân dân” (Điều 91 BLHS năm 1999) thành hai tội danh độc lập là “Tội tổ chức, xúi giục hoặc cưỡng ép người khác trốn đi nước ngoài hoặc trốn ở lại nước ngoài nhằm mục đích chống chính quyền nhân dân” (Điều 120) và “Tội trốn đi nước ngoài hoặc trốn ở lại nước ngoài nhằm mục đích chống chính quyền nhân dân” (Điều 121). Bởi lẽ hành vi tổ chức, xúi giục hoặc cưỡng ép người khác trốn đi nước ngoài hoặc trốn ở lại nước ngoài nhằm mục đích chống chính quyền nhân dân nguy hiểm hơn hành vi trốn đi nước ngoài hoặc trốn ở lại nước ngoài nhằm mục đích chống chính quyền nhân dân, trong khi đó, BLHS hiện hành lại quy định trong cùng một điều luật với các khung hình phạt giống nhau là chưa phù hợp. Do đó cần tách thành 2 Điều luật riêng biệt để có chính sách xử lý cho phù hợp;

– Bỏ “Tội hoạt động phỉ” (Điều 83 BLHS hiện hành). Vì “Tội bạo loạn” quy định tại Điều 112 và “Tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân” quy định tại Điều 113 BLHS năm 2015 (Điều 82 và Điều 84 BLHS năm 1999) đã bao quát trường hợp phạm tội được quy định tại Điều 83 BLHS hiện hành về tội hoạt động phỉ. Theo đó, người nào nhằm chống chính quyền nhân dân mà hoạt động vũ trang ở vùng rừng núi, vùng biển vùng hiểm yếu khác sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về “Tội bạo loạn” (Điều 112) vì theo quy định tại Điều 112 thì người nào hoạt động vũ trang hoặc dùng bạo lực có tổ chức nhằm chống chính quyền nhân dân, bất kể ở khu vực nào, đều bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này. Đối với người nhằm chống chính quyền nhân dân mà thực hiện hành vi giết người, cướp phá tài sản sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về “Tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân” quy định tại Điều 113;

– Bổ sung quy định về trường hợp chuẩn bị phạm tội tại các điều luật tại chương này;

– Sửa đổi, bổ sung cơ bản cấu thành tội phạm của “Tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân” (bổ sung thêm một số hành vi bị coi là tội phạm: Thành lập, tham gia tổ chức khủng bố, tổ chức tài trợ khủng bố; cưỡng ép, lôi kéo, tuyển mộ, đào tạo, huấn luyện phần tử khủng bố; chế tạo, cung cấp vũ khí cho phần tử khủng bố) và “Tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam” (sửa đổi sắp xếp lại các hành vi cho dễ hiểu và dễ áp dụng trong thực tiễn).

Chương XIV: Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người

Chương này gồm có 34 điều (từ Điều 123 đến Điều 156) quy định những hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người bị coi là tội phạm và hình phạt đối với các tội phạm này.

Việc sửa đổi, bổ sung này bảo đảm phù hợp với thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm; Bảo đảm tính minh bạch, cụ thể, rõ ràng của các quy định, tạo điều kiện cho việc áp dụng; Bảo vệ tốt hơn quyền sống, quyền được bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người; phù hợp với quy định của các Điều ước quốc tế: Công ước phòng, chống tội phạm xuyên quốc gia và Nghị định thư bổ sung về ngăn ngừa, trấn áp và trừng trị tội phạm mua bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em; Công ước về Quyền trẻ em và Nghị định thư không bắt buộc về phòng, chống mua bán trẻ em, mại dâm trẻ em và văn hóa phẩm khiêu dâm trẻ em.

Chương này sửa đổi, bổ sung như sau:

– Quy định là tội phạm đối với các hành vi: sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm (Điều 147); mua bán, chiếm đoạt mô hoặc bộ phận cơ thể người (Điều 154), để phù hợp và đáp ứng yêu cầu đấu tranh chống tội phạm trong tình hình hiện nay.

– Sửa đổi nội hàm khái niệm “giao cấu” quy định tại các tội xâm hại tình dục theo hướng bao gồm: hành vi giao cấu theo quan niệm truyền thống và hành vi quan hệ tình dục khác. Để đảm bảo phản ánh được những yêu cầu của thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm xâm hại tình dục, thì bên cạnh việc thực hiện hành vi giao cấu, các Điều 141, 142, 143, 144 và 145 của BLHS năm 2015 đã bổ sung thêm trường hợp nếu người phạm tội “thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác mà không được sự đồng ý của nạn nhân” cũng bị coi là thực hiện các tội phạm này (tuy nhiên, hành vi này cũng sẽ phải cần có sự hướng dẫn của cơ quan có thẩm quyền).

– Sửa đổi tội mua bán người và tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em theo hướng phù hợp với thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm này và đáp ứng yêu cầu của Nghị định thư về phòng ngừa, trấn áp và trừng trị tội buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em: Theo quy định của BLHS hiện hành thì ý chí chủ quan của người bị mua bán (người đó có đồng ý hay không về việc mình bị mua bán) không có ý nghĩa trong cấu thành tội mua bán người nên trong thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm này gặp một số khó khăn nhất định, đặc biệt là khó khăn trong việc định tội danh chính xác và phù hợp, tránh trùng dẫm với một số tội phạm khác có hành vi khách quan tương tự. Do vậy, Điều 150 – tội mua bán người và Điều 151 – tội mua bán người dưới 16 tuổi của BLHS năm 2015 đã được sửa đổi phù hợp hơn với yêu cầu của Nghị định thư cũng như khắc phục được những khó khăn trong thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm theo hướng mô tả cụ thể hành vi khách quan của tội phạm, bao gồm thủ đoạn, hành vi và mục đích, vừa đáp ứng yêu cầu thực tiễn của Việt Nam, vừa tiếp cận gần hơn với yêu cầu của Nghị định thư.

Đồng thời tách tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em thành 03 tội danh độc lập, nhằm phản ánh đúng tính chất, mức độ nguy hiểm của từng hành vi phạm tội cũng như đảm bảo việc phân hóa trách nhiệm hình sự. Do vậy, Điều 151, 152 và 153 BLHS năm 2015 đã quy định tội mua bán người dưới 16 tuổi, tội đánh tráo người dưới 1 tuổi và tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi là 03 tội danh độc lập với chính sách xử lý khác nhau.

– Bổ sung các tình tiết định tội, định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự, nhiều tội khung hình phạt tăng nặng được cụ thể hóa chi tiết hơn: Như bổ sung “hành vi vứt con mới đẻ”, hành vi “giết người, cố ý gây thương tích do vượt quá mức cần thiết khi bắt người phạm tội” bị coi là tội phạm; tình tiết dùng a xít sunfuric hoặc hóa chất nguy hiểm khác gây thương tích gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là tình tiết định khung tăng nặng trong “Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác”; bổ sung tình tiết gây rối loạn tâm thần và hành vi cho nạn nhân, làm nạn nhân tự sát … trong một số tội; như tội cố ý gây thương tích, Điều 104 trước đây có 4 khung hình phạt nay được cụ thể hóa tách thành 6 khung hình phạt; tội cố ý gây thương tích cho người khác trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội được tách ra thành 3 khung hình phạt (trước đây có 2 khung), ngoài ra còn nhiều tội khác như:tội cố ý truyền HIV cho người khác, tội mua bán người …

– Bổ sung hình phạt tiền là hình phạt chính áp dụng đối với một số tội danh: tội về gây thương tích như tội cố ý gây thương hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh; tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng; tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong khi thi hành công vụ; tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác và tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính.

Chương XV: Các tội xâm phạm quyền tự do của con người, quyền tự do, dân chủ của công dân

Chương này có 11 điều (từ Điều 157 đến Điều 167) quy định những hành vi xâm phạm quyền tự do của con người và quyền tự do, dân chủ của công dân bị coi là tội phạm và hình phạt đối với các tội phạm này. Việc sửa đổi, bổ sung này bảo đảm phù hợp với yêu cầu của Hiến pháp năm 2013 về tăng cường bảo vệ các quyền, tự do cơ bản của con người, quyền công dân; bảo đảm tính minh bạch, rõ ràng, tạo điều kiện cho các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng một cách thống nhất các quy định; Đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế, phù hợp với Công ước các quyền dân sự, chính trị. So với BLHS năm 1999 thì nội dung chương này có một số sửa đổi, bổ sung sau:

 – Sửa đổi tên chương thành “Các tội xâm phạm quyền tự do của con người, quyền tự do dân chủ của công dân” vì nếu chỉ là “Các tội xâm phạm các quyền tự do, dân chủ của công dân” là quá hẹp, chưa thể hiện hết nội hàm các quy định trong chương này. Do đó, BLHS năm 2015 đã điều chỉnh tên Chương này theo hướng mở rộng đối tượng được bảo vệ – không chỉ giới hạn trong các quyền tự do, dân chủ của công dân mà là các quyền tự do của cá nhân nói chung. Nhằm tăng cường bảo vệ các quyền con người theo tinh thần Hiến pháp năm 2013 và yêu cầu hội nhập quốc tế.

– Cụ thể hoá các hành vi cấu thành tội phạm và các tình tiết định tính cấu thành định tội hoặc định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự. Đa số các điều luật về các tội xâm phạm quyền tự do dân chủ của công dân chưa quy định một cách cụ thể các hành vi cấu thành tội phạm, hơn nữa, hầu hết các điều luật đều có các tình tiết định tội hoặc định khung tăng nặng “gây hậu quả nghiêm trọng”, “gây hậu quả rất nghiêm trọng” hoặc “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng”. Điều này gây trở ngại lớn cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc xác định tội phạm và hình phạt đối với từng trường hợp cụ thể. Để bảo đảm tính minh bạch, rõ ràng, tạo điều kiện cho các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng một cách thống nhất các quy định của Bộ luật, nên BLHS năm 2015 đã sửa đổi theo hướng cụ thể hoá hành vi và các tình tiết định tội.

– Hình sự hoá một số hành vi xâm phạm quyền tự do của con người, quyền dân chủ của công dân được ghi nhận tại Hiến pháp năm 2013. BLHS năm 2015 đã bổ sung 01 tội là tội xâm phạm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, quyền biểu tình của công dân; bổ sung hành vi xâm phạm quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân vào tội xâm phạm quyền bầu cử, quyền ứng cử, bổ sung hành vi làm sai lệch kết quả trưng cầu ý dân vào tội làm sai lệch kết quả bầu cử.

– Tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với một số tội phạm cụ thể, nhằm phù hợp với yêu cầu thực tiễn và những bất cập trong chính sách xử lý các loại tội phạm. Cụ thể như:

+ Tăng mức hình phạt cao nhất đối với tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật đến 12 năm tù, tội xâm phạm chỗ ở của người khác đến 5 năm tù, tội buộc công chức, viên chức thôi việc hoặc sa thải người lao động trái pháp luật đến 03 năm tù…

+ Bỏ hình phạt cảnh cáo đối với một số tội (tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật, tội xâm phạm chỗ ở của người khác, tội xâm phạm quyền bầu cử, quyền ứng cử, quyền biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu dân ý của công dân, tội xâm phạm quyền khiếu nại, tố cáo…) để bảo đảm chính sách xử lý nghiêm khắc hơn đối với các hành vi xâm phạm quyền tự do của con người, quyền tự do dân chủ của công dân.

+ Bổ sung hình phạt tiền là hình phạt chính đối với tội buộc công chức, viên chức thôi việc hoặc sa thải người lao động trái pháp luật.

– Bổ sung các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với hầu hết các tội phạm thuộc Chương này. Xuất phát từ thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân cho thấy nhiều tình tiết mới, cần phải được nghiên cứu để đưa vào các cấu thành tăng nặng của các tội phạm cụ thể, nhằm cá thể hóa trách nhiệm hình sự, bảo đảm sự minh bạch, rõ ràng (tình tiết: gây rối loạn tâm thần và hành vi của người khác, làm người khác tự sát …). Riêng đối với tội xâm phạm quyền hội họp, lập hội, quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo của người khác được tách thành 02 tội: Tội xâm phạm quyền hội họp, lập hội của công dân (Điều 163) và tội xâm phạm quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo của người khác (Điều 164) vì đây là 02 lĩnh vực khác nhau, đã được quy định tại các điều khác nhau của Hiến pháp năm 2013 (khoản 3 Điều 24 và Điều 25 của Hiến pháp). Đồng thời, bổ sung cấu thành tăng nặng định khung đối với hai tội này.

Chương XVI: Các tội xâm phạm sở hữu

Chương này có 13 điều (từ Điều 168 đến Điều 180). So với BLHS năm 1999 thì về cơ bản nội dung các điều luật trong chương này vẫn được giữ nguyên. Việc sửa đổi, bổ sung này bảo đảm phù hợp với thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm, tăng cường bảo vệ quyền về tài sản, đặc biệt là các tài sản có giá trị tinh thần đặc biệt của người dân (kỷ vật của liệt sỹ…); bảo đảm đối xử bình đẳng giữa chính sách xử lý hành vi xâm phạm tài sản của Nhà nước với hành vi xâm phạm tài sản của cá nhân theo tinh thần của Hiến pháp 2013; Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về tăng cường áp dụng các chế tài không tước tự do. Cụ thể được sửa đổi, bổ sung như sau:

– Bổ sung thêm đối tượng tài sản bị xâm hại là “phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ”; “tài sản là kỷ vật, di vật, đồ thờ cúng có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại” tại một số tội danh: tội công nhiên chiếm đoạt tài sản (Điều 172), tội trộm cắp tài sản (Điều 173), tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174), tội “hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản”.

BLHS hiện hành quy định đối tượng tài sản bị xâm hại là những tài sản thông thường, có thể quy giá trị thành tiền mà chưa đề cập đến những đối tượng tài sản đặc biệt, như cổ vật hoặc các tài sản có giá trị lịch sử, văn hóa. Những tài sản này có thể có những loại tuy giá trị quy thành tiền không đáng kể, nhưng những giá trị về văn hóa, về lịch sử thì không thể tính hết được, đặc biệt không thể quy giá trị tài sản này thành tiền. Do vậy BLHS 2015 đã bổ sung đối tượng tài sản bị xâm hại của một số tội phạm thuộc chương này là cổ vật hoặc vật có giá trị lịch sử, văn hóa.

– Bổ sung hành vi khách quan của tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Theo đó, mặc dù đã đến thời hạn trả nợ và có điều kiện, khả năng trả nợ nhưng cố tình không trả bị coi là phạm tội. Đồng thời, bỏ dấu hiệu “bỏ trốn”.

– Mở rộng khách thể bảo vệ tại tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp” (Điều 179). Bổ sung bảo vệ đối với cả tài sản của tổ chức, doanh nghiệp.

– Cụ thể hoá các tình tiết định tính, định lượng, định khung tăng năng trách nhiệm hình sự (tình tiết gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng…); tăng mức định lượng phải chịu trách nhiệm hình sự tại các điều 179 và 180 (trước đây là 50 triệu nay tăng lên 100 triệu).

– Bổ sung hình phạt tiền là hình phạt chính đối với tội chiếm giữ trái phép tài sản và tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản.

– Bỏ hình phạt tử hình đối với tội cướp tài sản (hình phạt cao nhất là chung thân); bỏ hình phạt tù chung thân đối với các tội: Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản, tội trộm cắp tài sản và tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (hình phạt cao nhất là 20 năm tù).

 

Chương XVII: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình

Chương này có 08 điều (từ Điều 181 đến Điều 187). Việc sửa đổi, bổ sung chương này nhằm đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống hành vi vi phạm pháp luật loại tội phạm này trong thực tiễn; BLHS 2015 đã hình sự hoá một số hành vi nguy hiểm cho xã hội, phi tội phạm hoá một số hành vi; bảo đảm minh bạch, cụ thể, rõ ràng, tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng. Chương này sửa đổi, bổ sung như sau:

– Hình sự hóa hành vi tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại (Điều 187); chuyển hóa tội đăng ký kết hôn trái pháp luật (Điều 149 BLHS năm 1999) trong cấu thành tội đăng ký hộ tịch trái pháp luật (Điều 336 BLHS năm 2015).

– Phi hình sự hóa đối với tội tảo hôn: Tội tảo hôn được quy định tại Điều 148 BLHS năm 1999 nhưng xét về bản chất thì tính nguy hiểm của hành vi này không cao, do đó, chỉ cần xử lý các hành vi này theo chế tài hành chính là phù hợp.

– Cụ thể hóa một số tình tiết định tội tại một số điều luật: Ví dụ: tình tiết ”gây hậu quả nghiêm trọng” quy định tại tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng đã được cụ thể hóa thành các hậu quả như “làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn”, “làm cho vợ, chồng hoặc con của một trong hai bên tự sát” hoặc tình tiết “gây hậu quả nghiêm trọng” quy định tại tội ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu hoặc người có công nuôi dưỡng mình thành các hậu quả “thường xuyên làm cho nạn nhân bị đau đớn về thể xác, tinh thần”…

– Bổ sung các tình tiết tăng nặng định khung đối tội ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu hoặc người có công nuôi dưỡng mình, để đáp ứng yêu cầu phân hóa trách nhiệm hình sự đối với từng hành vi phạm tội cụ thể.

Chương XVIII: Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế

Chương này quy định về các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế gồm 47 điều (từ Điều 188 đến Điều 234, so với BLHS năm 1999 chương này tăng 12 điều), được chia thành 03 mục phù hợp với từng nhóm khách thể mà tội phạm xâm hại, gồm: Mục 1- Các tội phạm trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, thương mại; mục 2 – Các tội phạm trong lĩnh vực thuế, tài chính, ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm và mục 3 – Các tội phạm khác xâm phạm trật tự quản lý kinh tế.

Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đã có những bước phát triển quan trọng, từng bước hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới và đã mang lại những lợi ích to lớn, nhưng đồng thời cũng đặt ra nhiều vấn đề cần phải giải quyết, trong đó có vấn đề đấu tranh phòng chống tội phạm. BLHS năm 1999 vẫn là sản phẩm mang đậm dấu ấn thời kỳ đầu của quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, do vậy, chưa thực sự phát huy tác dụng trong việc bảo vệ và thúc đẩy các nhân tố tích cực của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN phát triển một cách lành mạnh. Một số quy định của BLHS năm 1999 tỏ ra không còn phù hợp với điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường. Mặt khác, nhiều tội phạm mới phát sinh trong quá trình vận hành nền kinh tế chưa được kịp thời bổ sung hoặc tuy đã được bổ sung, nhưng chưa đầy đủ, toàn diện, nhất là các tội phạm trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh, thương mại, tài chính, ngân hàng, thuế, bảo hiểm, chứng khoán, tội phạm trong lĩnh vực môi trường… Những hạn chế này đã ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của nền kinh tế cũng như hiệu quả của công tác đấu tranh phòng chống tội phạm và đòi hỏi cần phải tiếp tục hoàn thiện BLHS để góp phần bảo vệ và thúc đẩy hơn nữa sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Chương này sửa đổi, bổ sung như sau:

– Phi hình sự hóa đối với 03 tội danh được quy định trong BLHS năm 1999 là: Tội báo cáo sai trong quản lý kinh tế; tội vi phạm quy định về cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp và tội sử dụng trái phép quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ của tổ chức tín dụng; thay thế hành vi phạm tội của tội kinh doanh trái phép trong một số cấu thành cụ thể, trên cơ sở đó bỏ tên tội kinh doanh trái phép.

– Thay thế tội cố ý làm trái các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 165 BLHS năm 1999). Trên cơ sở cân nhắc kỹ kết quả tổng kết thực tiễn xét xử về Tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng trong những năm qua, đồng thời, rà soát quy định của các luật chuyên ngành trên các lĩnh vực quản lý kinh tế, ngoài việc sửa đổi, bổ sung các tội danh hiện có trong Chương XVIII – Các tội xâm phạm trật tự kinh tế (gồm 38 điều), BLHS năm 2015 đã thay thế Điều 165 BLHS hiện hành bằng 09 tội danh mới thuộc các lĩnh vực: quản lý cạnh tranh, đầu tư công; quản lý, sử dụng tài sản nhà nước; quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất kinh doanh tại doanh nghiệp; đấu thầu; đấu giá tài sản; kế toán; quản lý thuế; xây dựng; bồi thường thu hồi đất, được quy định cụ thể tại các điều: 217, 218, 219, 220, 221, 222, 223, 224 và Điều 230 của BLHS năm 2015.

– Hình sự hóa một số hành vi tội phạm trong các lĩnh vực chứng khoán và bảo hiểm để đáp ứng thực tiễn cuộc sống và yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm. Bổ sung thêm 01 tội danh về chứng khoán là tội làm giả tài liệu trong hồ sơ chào bán, niêm yết chứng khoán (Điều 212) và 04 tội danh về bảo hiểm là: Tội gian lận trong kinh doanh bảo hiểm (Điều 213); tội gian lận bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp (Điều 214); tội gian lận bảo hiểm y tế (Điều 215) và tội trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động (Điều 216).

– Tách một số tội phạm ghép thành các tội phạm độc lập, riêng rẽ: BLHS hiện hành quy định một số tội phạm ghép thuộc chương các tội xâm phạm quản lý kinh tế. Với những quy định này thì những hành vi có tính chất, mức độ nguy hiểm khác nhau nhưng lại có chung chính sách xử lý hình sự. Do vậy, để đảm bảo việc phân hóa trách nhiệm hình sự, BLHS năm 2015 đã tách những tội phạm ghép này thành nhiều tội danh độc lập với chính sách xử lý khác nhau, đảm bảo phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội. Cụ thể: Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hành cấm quy định tại Điều 155 BLHS 1999 được tách thành 02 tội danh độc lập tại BLHS 2015 đó là tội sản xuất, buôn bán hàng cấm (Điều 190) và tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm (Điều 191); Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh quy định tại Điều 157 BLHS năm 1999 được tách thành 02 tội danh độc lập là tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm (Điều 193) và tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc phòng bệnh, thuốc chữa bệnh (Điều 194).

– Quy định cụ thể các tình tiết định tội, định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế. Để đảm bảo tính minh bạch, rõ ràng của các dấu hiệu định tính, định lượng làm căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc dấu hiệu định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự, các điều luật của chương này đã cụ thể hóa tương đối đầy đủ, rõ ràng các dấu hiệu định tính, định lượng như thu lợi bất chính lớn, thu lợi bất chính rất lớn, thu lợi bất chính đặc biệt lớn (đối với tất cả các điều luật có quy định dấu hiệu này) hoặc dấu hiệu gây hậu quả nghiêm trọng, gây hậu quả rất nghiêm trọng, gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

– Quy định pháp nhân thương mại phải chịu trách nhiệm hình sự đối với 22 tội danh trong chương này thuộc lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, lưu thông hành hóa; thuế, chứng khoán, bảo hiểm và các lĩnh vực kinh tế khác.

– Bổ sung hình phạt tiền là hình phạt chính đồng thời tăng mức phạt tiền   đối với hầu hết các tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế.

– Bỏ hình phạt tử hình đối với tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm. Trước đây tội này nằm chung trong tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh (điều 157 BLHS năm 1999) có hình phạt cao nhất là tử hình, nay được tách ra thành 02 tội và đối với tội buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh hình phạt cao nhất vẫn là tử hình.

Chương XIX: Các tội phạm về môi trường

Chương này có 12 điều (từ Điều 235 đến Điều 246). Qua thực tiễn thi hành các quy định tại Chương này đã nảy sinh nhiều vướng mắc, bất cập ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả của công tác đấu tranh phòng, chống các tội phạm về môi trường, trong đó chủ yếu là do việc quy định cấu thành tội phạm còn chung chung và khó áp dụng như quy định cấu thành vật chất (đòi hỏi hành vi phạm tội phải gây ra hậu quả mới xử lý về hình sự), chưa quy định chủ thể của tội phạm là các pháp nhân… Chương này sửa đổi, bổ sung như sau:

– Sửa đổi cấu thành các tội phạm về môi trường theo hướng cụ thể hóa các hành vi và quy định mức định lượng vi phạm cụ thể: tội gây ô nhiễm môi trường (Điều 235), tội vi phạm các quy định về quản lý chất thải nguy hại (Điều 236), tội đưa chất thải vào lãnh thổ Việt Nam (Điều 239)… Ví dụ: đối với tội gây ô nhiễm môi trường (Điều 235 BLHS), hành vi xả nước thải có chứa các thông số môi trường nguy hại vượt quy chuẩn kỹ thuật về chất thải có độ pH từ 0 đến dưới 02 hoặc từ 12,5 đến 14 trong trường hợp lượng nước thải từ 5.000 mét khối (m3)/ngày đến dưới 10.000 mét khối (m3)/ngày thì sẽ bị xử lý hình sự.

– Bổ sung 01 tội danh mới: Tội vi phạm quy định về bảo vệ an toàn công trình thủy lợi, hồ chứa, liên hồ chứa, đê điều và công trình phòng, chống thiên tai; vi phạm quy định về bảo vệ bờ, bãi sông (Điều 238) nhằm xử lý các hành vi vi phạm các quy định về bảo vệ an toàn công trình thủy lợi, đê điều, phòng, chống thiên tai; bảo vệ bờ, bãi sông; các hành vi hủy hoại hoặc làm hư hỏng công trình thủy lợi, đê điều, phòng chống thiên tai, công trình bảo vệ, khai thác, sử dụng, quan trắc, giám sát tài nguyên nước, công trình phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra; không tuân thủ quy trình, quy chuẩn vận hành hồ chứa, liên hồ chứa, công trình phân lũ, làm chậm lũ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành gây hậu quả nghiêm trọng.

– Bổ sung trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại đối với đa số các tội phạm về môi trường. Đó là: tội gây ô nhiễm môi trường (Điều 235); tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại (Điều 236); tội đưa chất thải vào lãnh thổ Việt Nam (Điều 236), tội vi phạm quy định về phòng ngừa, ứng phó, khắc phục sự cố môi trường (Điều 237), Tội vi phạm quy định về bảo vệ an toàn công trình thủy lợi, đê điều và phòng, chống thiên tai; vi phạm quy định về bảo vệ bờ, bãi sông (Điều 238), tội đưa chất thải vào lãnh thổ Việt Nam (Điều 239), tội huỷ hoại nguồn lợi thuỷ sản (Điều 242), tội hủy hoại rừng (Điều 243), tội vi phạm quy định về quản lý, bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm (Điều 244), tội vi phạm các quy định về quản lý khu bảo tồn thiên nhiên (Điều 245), tội nhập khẩu, phát tán các loài ngoại lai xâm hại (Điều 246).

– Mở rộng phạm vi áp dụng và nâng mức hình phạt tiền đối với hầu hết các tội: Do tính chất nghiêm trọng của các tội phạm môi trường và xét mục đích chủ yếu của các hành vi phạm tội là nhằm thu lợi nên phạm vi áp dụng của hình phạt tiền được mở rộng, mức phạt tiền được nâng lên đảm bảo tính răn đe, trừng trị đối với các hành vi vi phạm. Hình phạt tiền đã được bổ sung tại khung cơ bản (khoản 1); khoản 1 Điều 241 về “Tội làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho người” (đây là điều luật duy nhất không quy định hình phạt tiền tại khung cơ bản tại BLHS năm1999). Hình phạt tiền đã được quy định tại khung tăng nặng của một số tội (ví dụ: tội gây ô nhiễm môi trường; tội vi phạm quy định về phòng ngừa, ứng phó, khắc phục sự cố môi trường; tội đưa chất thải vào lãnh thổ Việt Nam; tội vi phạm các quy định về bảo vệ động vật thuộc danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm).

Chương XX: Các tội phạm về ma túy

Chương này có 13 điều (từ Điều 247 đến Điều 259). Việc sửa đổi, bổ sung chương này nhằm thực hiện chủ trương về giảm hình phạt tử hình của Đảng và nhà nước tại các Nghị quyết của Bộ Chính trị; Bảo đảm tính minh bạch, rõ ràng, thuận lợi cho việc áp dụng điều luật trong xử lý tội phạm. Chương này sửa đổi, bổ sung như sau:

– Bổ sung đối tượng là cây cô ca, cây cần sa trong tội trồng cây thuốc phiện, cây cô ca, cây cần sa hoặc các loại cây khác có chứa chất ma túy (Điều 247), đồng thời bổ sung số lượng cây trong cấu thành cơ bản của tội này (trồng từ 500 cây trở lên mới phạm tội); bổ sung thêm chất Methamphetamine, Amphetamine và MDMA là chất ma túy được coi như hêrôin, côcain trong một số tội (sản xuất, tàng trữ, vận chuyển …trái phép chất ma túy).

– Bộ luật hình sự năm 2015 đã thay cụm từ “trọng lượng” bằng cụm từ “khối lượng” đối với các chất ma túy ở thể rắn.  

– Tách tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy (Điều 194 BLHS năm 1999) thành 04 tội danh độc lập. Tách tội cưỡng bức, lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 200 BLHS năm 1999) thành 02 tội danh độc lập; Bỏ hình phạt tử hình đối với tội tàng trữ và tội chiếm đoạt chất ma tuý.

Việc tách Điều 194 BLHS hiện hành thành các tội độc lập nhằm thực hiện chủ trương giảm quy định hình phạt tử hình đối với tội phạm về ma túy. thể hiện tinh thần của Hiến pháp năm 2013 trong việc ghi nhận và bảo vệ quyền sống của con người, đồng thời tiếp tục thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng về giảm hình phạt tử hình. Bên cạnh đó, việc tiếp tục hạn chế hình phạt tử hình ở nước ta còn nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.

– Cụ thể hóa một số tình tiết định tội, định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Chương XXI: Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng

Chương này quy định về các tội xâm phạm an toàn công cộng và trật tự công cộng gồm 70 điều (từ Điều 260 đến Điều 329), được chia thành 04 mục phù hợp với từng nhóm khách thể mà tội phạm xâm hại, gồm: Mục 1- Các tội phạm xâm phạm an toàn giao thông; mục 2 – Các tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông, mục 3 – Các tội phạm khác xâm phạm an toàn công cộng và Mục 4- Các tội phạm khác xâm phạm trật tự công cộng.

Việc sửa đổi, bổ sung nhằm khắc phục những vướng mắc, bất cập trong thực tiễn đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này (các tình tiết định tính chưa được cụ thể hoá, nhiều hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa được quy định trong BLHS hoặc có nhưng chưa phản ánh đầy đủ bản chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi); bảo đảm phù hợp với yêu cầu của các Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên: Công ước về luật biển năm 1982, Công ước chống khủng bố, Công ước chống cướp biển…; Thực hiện chủ trương về tăng tính hướng thiện và phòng ngừa tội phạm, tăng cường áp dụng các chế tài không tước tự do của Đảng và nhà nước tại các Nghị quyết của Bộ Chính trị; bảo đảm tính minh bạch, rõ ràng, thuận lợi cho việc áp dụng điều luật trong xử lý tội phạm. Chương này sửa đổi, bổ sung như sau:

Tách chương này thành các mục riêng để có chính sách xử lý phù hợp hơn (được chia thành 04 mục). Qua rà soát cho thấy, Chương các tội xâm phạm an toàn cộng cộng, trật tự công cộng trong BLHS hiện hành có số lượng điều luật và tội danh nhiều nhất trong các chương. Giữa các nhóm hành vi có cùng tính chất lại không được phân biệt với nhau nên gây khó khăn cho quá trình áp dụng. Mặt khác, việc quy định vào cùng một chương các hành vi phạm tội có tính chất và mức độ nguy hiểm khác nhau sẽ gây khó khăn cho việc phân hóa trách nhiệm hình sự. Do đó, cần tách thành các mục độc lập để có điều kiện phân hóa trách nhiệm hình sự được minh bạch hơn.

– Bổ sung 08 tội danh mới quy định tại các điều; Điều 285. Tội sản xuất, mua bán, trao đổi hoặc tặng cho công cụ, thiết bị, phần mềm để sử dụng vào mục đích trái pháp luật; Điều 291. Tội thu thập, tàng trữ, trao đổi, mua bán, công khai hóa trái phép thông tin về tài khoản ngân hàng; Điều 292. Tội cung cấp dịch vụ trái phép trên mạng máy tính, mạng viễn thông; Điều 293. Tội sử dụng trái phép tần số vô tuyến điện dành riêng cho mục đích cấp cứu, an toàn, tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn, quốc phòng, an ninh; Điều 294. Tội cố ý gây nhiễu có hại; Điều 297. Tội cưỡng bức lao động; Điều 301. Tội bắt cóc con tin; Điều 302. Tội cướp biển.

Có thể thấy phần lớn các tội danh mới được bổ sung thuộc nhóm tội phạm công nghệ cao – loại tội phạm đang phổ biến hiện nay và mang tính xuyên quốc gia, gây thiệt hại hết sức nghiêm trọng về an ninh và tài sản. Ngoài ra, việc bổ sung tội bắt cóc con tin và tội cướp biển là nhằm nội luật hóa Công ước luật biển năm 1982 và Công ước chống bắt cóc con tin năm 1979.

– Bổ sung các tình tiết định tội, định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng; cụ thể hoá các tình tiết định tính trong các cấu thành tội phạm.

VD: bổ sung tình tiết đổ chất gây trơn, vật sắc nhọn … gây cản trở giao thông đường bộ trong tội cản trở giao thông đường bộ, cụ thể hóa cấu thành tội phạm trong tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc (quy định cụ thể những hành vi bị coi là tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc). Tăng mức tiền (định lượng) trong cấu thành cơ bản của tội đánh bạc (trị giá tiền đánh bạc từ 5.000.000 đồng trở lên mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự).

– Điều chỉnh chủ thể đối với tội vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ, nay mở rộng hơn là tất cả người tham gia giao thông đường bộ. Như trước đây chỉ những người điều khiển phương tiện giao thông đường bộ vi phạm các quy định về an toàn giao thông gây hậu quả thì mới bị coi là tội phạm, nay theo BLHS năm 2015 thì những người tham gia giao thông đường bộ vi phạm các quy định về an toàn giao thông gây hậu quả thì cũng bị coi là tội phạm, tức là mở rộng đến cả người đi bộ. Cụ thể hóa hành vi “Giao cho người không đủ điều kiện điều khiển các phương tiện tham gia GTĐB”thành một tội độc lập, quy định rõ hơn dấu hiệu khách quan để dễ áp dụng PL.

– Sửa đổi các tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông bảo đảm phù hợp với thực tiễn đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này.

Nhóm tội này được chia thành hai loại: các hành vi xâm phạm sự an toàn của hệ thống mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet và nhóm các hành vi sử dụng công nghệ này để chiếm đoạt tài sản hoặc kinh doanh trái phép.

– Bỏ hình phạt tử hình đối với tội phá hủy công trình, cơ sở, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia.

Chương XXII: Các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính

Chương này có 22 điều (từ Điều 330 đến Điều 351). Việc sửa đổi, bổ sung nhằm bảo đảm tính minh bạch, cụ thể của Bộ luật; Bảo đảm tính thống nhất với hệ thống pháp luật hiện hành. Chương này sửa đổi, bổ sung như sau:

Bổ sung tội đăng ký hộ tịch trái pháp luật; đồng thời chuyển hóa hành vi của tội đăng ký kết hôn trái pháp luật (Điều 149 BLHS năm 1999) vào cấu thành của tội này; bổ sung tội tổ chức, môi giới cho người khác xuất cảnh, nhập cảnh hoặc ở lại Việt Nam trái phép.

– Cụ thể hóa các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự như tình tiết gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng; hình sự hóa hành vi sử dụng con dấu, tài liệu giả của cơ quan, tổ chức và quy định hành vi này trong cùng điều luật về tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức. Cụ thể hóa các dấu hiệu cấu thành tội phạm của tội vi phạm các quy định về hoạt động xuất bản để phù hợp các quy định của Luật xuất bản.

– Phi hình sự hóa đối với hành vi không chấp hành các quyết định hành chính của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc đưa vào cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh, quản chế hành chính (bỏ tội danh tại Điều 269 BLHS năm 1999).

– Tách tội tổ chức, cưỡng ép người khác trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài trái phép thành hai tội: Tội tổ chức, môi giới cho người khác trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài trái phép và tội cưỡng ép người khác trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài trái phép và bổ sung thêm hành vi môi giới cho người khác trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài trái phép cho phù hợp với yêu cầu phòng chống loại tội này và thực tiễn xét xử. Hành vi cưỡng ép người khác trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài trái phép có tính nguy hiểm cao hơn so với hành vi tổ chức, môi giới cho người khác trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài trái phép.

Chương XXIII: Các tội phạm về chức vụ

Chương này có 14 điều (từ Điều 353 đến Điều 366) được chia thành 02 mục là gồm: Mục 1- Các tội phạm tham nhũng; mục 2 – Các tội phạm khác về chức vụ. So với BLHS năm 1999 thì bố cục cũng như số điều luật quy định tại chương này cơ bản không thay đổi. Tuy nhiên Bộ luật hình sự năm 2015 cũng đã sửa đổi, bổ sung các tội phạm về chức vụ nhằm thể chế hoá chủ trương, nghị quyết của Đảng về chống tham nhũng, khắc phục những bất cập trong quá trình đấu tranh phòng, chống tội phạm, phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế, xã hội, chính trị của đất nước, cũng như bảo đảm thực thi các nghĩa vụ mà chúng ta đã cam kết theo Công ước chống tham nhũng, cụ thể được sửa đổi, bổ sung như sau:

– Điều chỉnh khái niệm tội phạm về chức vụ theo hướng mở rộng bao gồm cả một số hành vi tội phạm về chức vụ xảy ra trong khu vực tư (ngoài nhà nước) như: tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ, tội môi giới hối lộ và tội đưa hối lộ. Nhằm cụ thể hóa và thực hiện cam kết theo công ước chống tham nhũng mà Việt Nam tham gia và đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tham nhũng cũng như thực tiễn xét xử loại tội phạm này hiện nay.

BLHS 1999 mới chỉ dừng lại đối với các hành vi tham nhũng trong lĩnh vực công mà chưa ghi nhận về tội phạm tham nhũng trong khu vực tư và vì vậy chưa có các quy định pháp luật tương ứng, kèm theo các biện pháp xử lý hình sự đối với loại tội phạm này, mặc dù, một số hành vi tương tự  xảy ra trong khu vực tư, theo quy định của BLHS vẫn có thể truy cứu trách nhiệm hình sự, ví dụ: hành vi chiếm đoạt tài sản của người điều hành hay làm việc ở bất kỳ cương vị nào cho tổ chức thuộc khu vực tư mà biển thủ tài sản, quỹ tư được giao quản lý thì tuỳ từng trường hợp cụ thể có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 140 BLHS – Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản hoặc theo Điều 139 BLHS– Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên, nhìn chung những quy định hiện hành của BLHS là chưa thực sự phù hợp và chưa phản ánh đúng bản chất của tội phạm tham nhũng theo yêu cầu của Công ước. Hơn nữa, thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm cũng cho thấy sự bất cập trong chính sách xử lý đối với các hành vi lợi dụng chức vụ quyền hạn để trục lợi do có sự phân biệt giữa khu vực nhà nước và khu vực tư… vì vậy, cần phải mở rộng chủ thể phải chịu trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm trong chương này.

– Bổ sung quy định về xử lý hình sự đối với tội đưa hối lộ cho công chức nước ngoài, công chức của tổ chức quốc tế công nhằm đáp ứng yêu cầu Công ước Chống tham nhũng (khoản 6 Điều 364);

BLHS năm 1999 chưa có quy định về hành vi phạm tội hối lộ công chức nước ngoài hoặc công chức của tổ chức quốc tế công theo quy định của Công ước. Trong bối cảnh cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, các quốc gia khác nhau trên thế giới, các tổ chức quốc tế, tổ chức phi Chính phủ đóng một vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế – xã hội ở nước ta thông qua các hoạt động hợp tác, hỗ trợ, viện trợ, tài trợ, v.v…. của các tổ chức này. Việc một người nào đó vì vụ lợi mà đưa hối lộ công chức nước ngoài hay tổ chức quốc tế công để dành những ưu thế trong các hoạt động nêu trên cũng đã xảy ra trong thực tiễn, vì vậy, để bảo đảm sự cạnh tranh lành mạnh, sự công bằng trong xã hội và giữ gìn quan hệ với các nước thì việc bổ sung hành vi đưa hối lộ công chức nước ngoài hay công chức của tổ chức quốc tế công là cần thiết. Những hành vi đưa hối lộ cho công chức nước ngoài, công chức của tổ chức quốc tế công sẽ bị xử lý theo quy định tại điều 364.

– Bổ sung “của hối lộ” và những lợi ích được hưởng thông qua việc lợi dụng chức vụ quyền hạn bao gồm cả “lợi ích phi vật chất”, cụ thể ở các tội: Tội nhận hối lộ (Điều 354), tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi (Điều 358), tội đưa hối lộ (Điều 364), tội môi giới hối lộ (Điều 365) và tội lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ quyền hạn để trục lợi (Điều 366) cho phù hợp với quy định của Công ước chống tham nhũng và thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm tham nhũng.

Theo quy định của Công ước về chống tham nhũng thì “của hối lộ” là bất kỳ lợi ích nào, có thể là lợi ích vật chất hoặc phi vật chất. Theo quy định tại Điều 279 BLHS hiện hành thì “của hối lộ” chỉ bao gồm tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác. Do đó để phù hợp với Công ước và thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm này cần phải sửa đổi, bổ sung như trên.

– Bổ sung hình phạt cải tạo không giam giữ, hình phạt tiền là hình phạt chính đối với một số tội phạm về chức vụ. Cụ thể: Bổ sung hình cải tạo không giam giữ, hình phạt tiền là hình phạt chính đối với các tội đưa hối lộ và môi giới hối lộ; bổ sung hình phạt cải tạo không giam giữ là hình phạt chính đối với tội lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ quyền hạn để trục lợi.

Nhằm thể chế hóa chủ trương của Đảng về hoàn thiện chính sách hình sự theo tinh thần Nghị quyết 49/NQ-TW về hoàn thiện chính sách xử lý người phạm tội theo hướng giảm khả năng áp dụng hình phạt tù, mở rộng phạm vi áp dụng các hình phạt không mang tính giam giữ như cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ đối với một số tội phạm chức vụ ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng và tạo tính linh hoạt cho Tòa án xem xét áp dụng hình phạt phù hợp với từng trường hợp cụ thể.

– Bổ sung một số tình tiết định tội, định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự tại các điều khoản quy định về tội phạm chức vụ.

Chương XXIV: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp

Chương này gồm 25 điều (từ Điều 367 đến Điều 391). Việc sửa đổi, bổ sung nhằm bảo đảm phù hợp với quy định của Hiến pháp năm 2013, Bộ luật tố tụng hình sự và các văn bản pháp luật có liên quan khác, bảo đảm việc áp dụng điều luật được chính xác, thống nhất; Khái niệm về các hành vi xâm phạm hoạt động tư pháp theo hướng hẹp, chỉ trong phạm vi hoạt động của các cơ quan điều tra, kiểm sát, xét xử, thi hành án và do đó, chưa bao quát hết phạm vi các chủ thể tham gia hoạt động tư pháp; chính sách xử lý hình sự đối với nhóm các tội xâm phạm hoạt động tư pháp về cơ bản là tương đối nghiêm khắc, tuy nhiên, liên quan đến hình phạt đối với một số tội phạm trực tiếp xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự nhân phẩm của cá nhân trong hoạt động tư pháp như dùng nhục hình, bức cung, ra bản án trái pháp luật,… đòi hỏi phải được xử lý nghiêm khắc hơn mới đáp ứng được yêu cầu bảo vệ nhóm quyền theo tinh thần Hiến pháp năm 2013 cũng như chủ trương tại các Nghị quyết của Đảng về tăng cường xử lý nghiêm khắc hơn đối với những tội phạm là người có thẩm quyền trong thực thi pháp luật, những người lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội.

Theo quy định tại Chương XXII BLHS hiện hành thì có một số tội chỉ thiết kế một khung hình phạt mà không có khung tăng nặng, hoặc các khung tăng nặng chưa dự liệu được nhiều các tình tiết phát sinh trong thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp. Do đó, cần thiết phải nghiên cứu bổ sung các tình tiết mới nhằm cá thể hoá trách nhiệm hình sự, bảo đảm chính sách xử lý nghiêm minh đối với các trường hợp phạm tội có tính chất nghiêm trọng hơn. Đồng thời bảo đảm sự minh bạch, rõ ràng của các điều luật, tạo điều kiện để các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng thống nhất trong quá trình xử lý vụ việc. Cụ thể, Chương này sửa đổi, bổ sung như sau:

– Mở rộng khái niệm các tội xâm phạm hoạt động tư pháp một cách khái quát “là những hành vi xâm phạm sự đúng đắn của hoạt động tố tụng và thi hành án” (Điều 367).

Điều 292 BLHS hiện hành quy định khái niệm về các hành vi xâm phạm hoạt động tư pháp theo hướng hẹp, chỉ trong phạm vi hoạt động của các cơ quan điều tra, kiểm sát, xét xử, thi hành án. Tuy nhiên, theo tinh thần các Nghị quyết của Bộ Chính trị về cải cách tư pháp, khái niệm quyền tư pháp trong Hiến pháp năm 2013 và các quy định của pháp luật hiện hành về các hoạt động tố tụng tư pháp thì hiện nay vẫn chưa thật rõ nội hàm của một số khái niệm liên quan đến hoạt động tư pháp như “quyền tư pháp”, “cơ quan tư pháp”, “hoạt động tư pháp”. Tuy nhiên, có thể nhận thấy rõ là các khái niệm này không đồng nhất với nhau. Tòa án là cơ quan duy nhất được giao thực hành quyền tư pháp nhưng không có nghĩa là chỉ có Tòa án mới tiến hành các hoạt động tư pháp , nên khái niệm về tội xâm phạm hoạt động tư pháp quy định tại Điều 292 là chưa bao quát hết phạm vi các chủ thể tham gia hoạt động tư pháp.

– Mở rộng phạm vi chủ thể, đối tượng tác động một số tội phạm: Cùng với việc sửa đổi khái niệm các tội xâm phạm hoạt động tư pháp theo hướng mở rộng nêu trên, tại một số tội phạm cụ thể thì phạm vi chủ thể thực hiện tội phạm hoặc đối tượng tác động của tội phạm cũng được điều chỉnh theo hướng mở rộng nhằm bảo đảm phù hợp với quy định của Hiến pháp năm 2013, Bộ luật tố tụng hình sự và các văn bản pháp luật có liên quan khác, bảo đảm việc áp dụng điều luật được chính xác, thống nhất.

Ví dụ: Chủ thể thực hiện tội ra quyết định trái pháp luật là “người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng, thi hành án” (Điều 371); Chủ thể của tội dùng nhục hình (Điều 373) là “người nào trong hoạt động tố tụng, thi hành án và thi hành các biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc ”; Chủ thể của tội bức cung là “người nào trong hoạt động tố tụng” (Điều 374). Thay thế thuật ngữ “nhân viên tư pháp” trong tội ép buộc nhân viên tư pháp làm trái pháp luật bằng thuật ngữ “người có thẩm quyền trong hoạt động tư pháp” (Điều 372). Mở rộng phạm vi đối tượng bỏ trốn trong tội thiếu trách nhiệm để người bị giam, giữ trốn (Điều 376); đối tượng được tha trái pháp luật trong tội tha trái pháp luật người đang bị giam, giữ (Điều 378) theo hướng thay cụm từ “người bị giam, tạm giữ” quy định tại tên điều luật và khoản 1 các điều này bằng cụm từ “người bị bắt, người bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành hình phạt tù”…

– Hình sự hóa một số hành vi xâm phạm hoạt động tư pháp: Bổ sung 02 tội danh mới là tội vi phạm quy định về giam giữ (Điều 388) và Tội gây rối trật tự phiên tòa (Điều 391).

Thực tiễn quản lý các cơ sở giam giữ trong những năm gần đây cho thấy, tình trạng vi phạm pháp luật tại các cơ sở này của người chấp hành án ngày càng gia tăng cả về số lượng lẫn tính chất phức tạp và mức độ nghiêm trọng.   Để bảo đảm an ninh, an toàn cho các cơ sở giam giữ, góp phần nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống các hành vi vi phạm, tạo môi trường lành mạnh cho các đối tượng cải tạo, trong sạch hoá đội ngũ cán bộ, nâng cao niềm tin của nhân dân đối với cơ quan thực thi pháp luật, việc hình sự hoá một số hành vi phạm của phạm nhân cũng như của cán bộ thực thi nhiệm vụ tại các cơ sở giam giữ là cần thiết. Mặt khác, trong thực tiễn xét xử nhiều phiên toà đã phải tạm ngừng do bị gây rối nghiêm trọng của những người tham dự phiên toà, đặc biệt là người phạm tội, người nhà nạn nhân ( mắng chửi, thoá mạ Hội đồng xét xử, đập phá tài sản ngay tại phòng xét xử,..). Hành vi này gây ảnh hưởng xấu trong dư luận xã hội, làm giảm uy nghiêm của cơ quan công quyền. Do vậy, để bảo đảm sự tôn nghiêm của pháp luật, trật tự tại phiên toà, việc quy định chế tài hình sự để xử lý đối với hành vi nói trên là cần thiết.

– Bổ sung khung tăng nặng trách nhiệm hình sự và nâng mức hình phạt cao nhất đối với một số tội để bảo đảm tính cân xứng giữa các tội phạm, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm cũng như bảo đảm sự công bằng trong xử lý tội phạm: Như đối với tội dùng nhục hình, tội bức cung, tội không thi hành án, tội không chấp hành án, tội ra quyết định trái pháp luật … đã bổ sung thêm khung hình phạt tăng nặng (03 khung); Tăng mức hình phạt cao nhất là mười hai năm tù đối với tội ra quyết định trái pháp luật; tù chung thân đối với tội dùng nhục hình và tội bức cung…

Theo quy định tại chương XXII BLHS thì có một số tội chỉ thiết kế một khung hình phạt mà không có khung tăng nặng, hoặc các khung tăng nặng chưa dự liệu được nhiều các tình tiết phát sinh trong thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp. Do đó, việc nghiên cứu để bổ sung các tình tiết mới là cần thiết nhằm cá thể hoá trách nhiệm hình sự, bảo đảm chính sách xử lý nghiêm minh đối với các trường hợp phạm tội có tính chất nghiêm trọng hơn. Đồng thời bảo đảm sự minh bạch, rõ ràng của các điều luật, tạo điều kiện để các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng thống nhất trong quá trình xử lý vụ việc.

– Quy định cụ thể về các tình tiết định tội, tình tiết định khung tăng nặng hình phạt đối với các tội phạm cụ thể. Như các tình tiết gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng…

Chương XXV. Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân và trách nhiệm của người phối thuộc với Quân đội trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu:

Chương này gồm 31 điều luật (từ Điều 392 đến Điều 420), tăng 05 điều so với BLHS năm 1999.

Việc sửa đổi, bổ sung nhằm thực hiện chủ trương của Đảng và nhà nước về thu hẹp phạm vi áp dụng hình phạt tử hình; Nhằm thể hiện đầy đủ và bao quát hết các hành vi, đối tượng áp dụng của chương này; Đáp ứng yêu cầu của thực tiễn về hình sự hoá một số hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa được điều chỉnh tại BLHS. Chương này sửa đổi, bổ sung như sau:

– Bổ sung, sửa đổi tên chương nhằm thể hiện rõ hơn đối tượng phải chịu trách nhiệm hình sự về các tội phạm trong chương này.

– Bổ sung thêm các đối tượng phải chịu trách nhiệm hình sự bao gồm cả   công nhân, viên chức quốc phòng;

– Sửa đổi cấu thành tội phạm của tội cản trở đồng đội thực hiện nhiệm vụ, để đảm bảo tính khả thi và đáp ứng yêu cầu của thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm. Điều 366 BLHS năm 2015 đã bổ sung yếu tố gây hậu quả (không thực hiện được hoặc thực hiện không đầy đủ nhiệm vụ được giao) trong dấu hiệu định tội. Như vậy tội này chuyển từ cấu thành hình thức sang cấu thành vật chất.

– Hình sự hóa đối với hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn ra mệnh lệnh trái pháp luật gây hậu quả nghiêm trọng: Bổ sung thêm tội ra mệnh lệnh trái pháp luật (Điều 393). Hình sự hóa hành vi cố ý làm hư hỏng vũ khí quân dụng, trang bị kỹ thuật quân sự: Bổ sung hành vi này vào tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng vũ khí quân dụng, trang bị kỹ thuật quân sự (Điều 413), nhằm đảm bảo tính thống nhất với các quy định khác của BLHS như tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản.

Tội ra mệnh lệnh trái pháp luật là một tội phạm mới được quy định trong BLHS năm 2015 và là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn ra mệnh lệnh trái pháp luật gây hậu quả nghiêm trọng. Việc hình sự hóa hành vi này nhằm đấu tranh phòng, chống hành vi lợi dụng quyền hạn để ra mệnh lệnh trái pháp luật, vượt thẩm quyền. Đồng thời, việc quy định tội phạm đối với hành vi này nhằm bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của quy định pháp luật, không phân biệt giữa quân nhân phải chấp hành mệnh lệnh với quân nhân ra mệnh lệnh. Đối với người thi hành mệnh lệnh trái phép, thì tại Điều 26 Bộ luật hình sự quy định “Người thực hiện hành vi gây thiệt hại trong khi thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên trong lực lượng vũ trang nhân dân để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh nếu đã thực hiện đầy đủ quy trình báo cáo người ra mệnh lệnh nhưng người ra mệnh lệnh vẫn yêu cầu chấp hành mệnh lệnh đó, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự. Trong trường hợp này người ra mệnh lệnh phải chịu trách nhiệm hình sự”.

– Cụ thể hóa một số hành vi trong cấu thành tội phạm của một số tội: ví dụ như hành vi chống mệnh lệnh trong tội chống mệnh lệnh được quy định cụ thể là hành vi từ chối chấp hành hoặc cố ý không thực hiện của người có thẩm quyền…

– Bổ sung tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trong một số tội danh, như tình tiết phạm tội trong khi thực hiện nhiệm vụ cứu hộ, cứu nạn hoặc trong tình trạng khẩn cấp…

– Gộp một số tội danh, ví dụ: đối với một số tội danh như Tội làm nhục, hành hung người chỉ huy hoặc cấp trên; Tội làm nhục hoặc dùng nhục hình đối với cấp dưới; Tội làm nhục, hành hung đồng đội trong BLHS năm 1999 được gộp thành hai tội là “Tội làm nhục đồng đội” và “Tội hành hung đồng đội”, đồng thời quy định tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự như phạm tội với chỉ huy, sỹ quan, đối với chỉ huy hoặc cấp trên, vì lý do công vụ của nạn nhân…

– Tách một số tội danh, ví dụ: tách “Tội cố ý làm lộ bí mật công tác quân sự; tội chiếm đoạt, mua bán hoặc tiêu hủy tài liệu bí mật công tác quân sự” thành hai tội: “Tội cố ý làm lộ bí mật công tác quân sự” và “Tội chiếm đoạt, mua bán hoặc tiêu huỷ tài liệu bí mật công tác quân sự”; tách “Tội vô ý làm lộ bí mật công tác quân sự; tội làm mất tài liệu bí mật công tác quân sự” thành hai tội: “Tội vô ý làm lộ bí mật công tác quân sự” và “Tội làm mất tài liệu bí mật công tác quân sự”; tách “Tội vi phạm chính sách đối với thương binh, tử sĩ trong chiến đấu” thành  “Tội cố ý bỏ thương binh, tử sĩ hoặc không chăm sóc, cứu chữa thương binh” và “Tội chiếm đoạt hoặc hủy hoại di vật của tử sĩ” đồng thời quy định rõ hơn các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với các tội này.

– Bỏ hình phạt tử hình đối với “Tội chống mệnh lệnh” (Điều 394) và “Tội đầu hàng địch” (Điều 399) và bỏ hình phạt tù chung thân đối với “Tội khai báo hoặc tự nguyện làm việc cho địch khi bị bắt làm tù binh” (Điều 400) và “Tội bỏ vị trí chiến đấu hoặc không làm nhiệm vụ trong chiến đấu” (Điều 401).

Chương XXVI: Các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh

Chương này gồm 05 điều (từ Điều 421 đến Điều 425) quy định những hành vi quan đến hòa bình và chiến tranh Việc sửa đổi, bổ sung nhằm Bảo đảm chính sách cá thể hoá trách nhiệm hình sự, tạo điều kiện để cơ quan có thẩm quyền quyết định hình phạt phù hợp với từng trường hợp cụ thể; Bảo đảm tính minh bạch, rõ ràng của quy định.

Chương này sửa đổi, bổ sung như sau: Các điều luật của chương này đã mở rộng hơn phạm vi của điều luật: thay từ “nước” thành “quốc gia hoặc một vùng lãnh thổ độc lập, có chủ quyền”; Bổ sung quy định tình tiết giảm nhẹ trong trường hợp bị ép buộc hoặc do thi hành mệnh lệnh của cấp trên; Tách “Tội tuyển mộ lính đánh thuê, tội làm lính đánh thuê” thành hai tội, bao gồm: “Tội tuyển mộ, huấn luyện hoặc sử dụng lính đánh thuê” và “Tội làm lính đánh thuê”.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *